Nằm trong vùng nhiết đới gió mùa nên điều kiện khí hậu của Việt Nam rất thuận lợi cho sự phát triển của các loài trà (Camellia) nói chung và của các loài trà vàng nói riêng. Những nghiên cứu trà vàng đầu tiên đều do người Pháp tiến hành. Năm 1886 loài trà vàng đầu tiên được người Pháp thu thập ở Đồng Nai với tên khoa học Camellia dormoyana. Năm 1910 hai loài trà vàng Camellia tonkinensis , Camellia flava lại được người Pháp tìm thấy dãy núi Ba Vì và vùng Kim Bảng tình Hà Nam. Những năm của thập kỷ 40, 4 loài trà vàng khác Camellia fleuryi, Camellia gilberti và Camellia petelotii và Camellia euphlebia đã được các nhà thực vật Pháp bổ sung vào danh lục các loài cây họ Chè (Theaceae) của Việt Nam. Sau khi người Pháp rút khỏi Việt Nam, do nhiều lý do khác nhau mà công tác thu thập và nghiên cứu trà vàng không được chú ý. Từ năm 1993 đến nay các nhà thực vật Việt Nam cùng các đồng nghiệp người Nhật Bản và Úc, nhiều cuộc khảo sát trà vàng được tiến hành ở nhiều địa điểm khác nhau từ Bắc tới Nam. Kết quả là 50 loài trà vàng ghi nhận có ở Việt Nam.
1. Danh mục các loài trà vàng VN
- Camellia aurea Chang, H.T.
- Camellia bugiamapensis Orel et al.
- Camelia capitata Orel et al.
- Camellia crassiphylla Ninh et Hakoda
- Camellia cucphuongensis Ninh et Rosmann
- Camellia dalatensis Dung,Ninh et Hakoda
- Camellia dongnaiensis Orel
- Camellia dormoyana (Pierre ex Laness) Sealy
- Camellia euphlebia Merr. ex Sealy
- Camellia flava (Pitard) Sealy
- Camellia fleuryi (A. Chev.) Sealy
- Camellia gilberti (A.Chev.) Sealy
- Camellia hakodae Ninh
- Camellia hamyenensis Ninh et Le
- Camellia hatinhensis Luong et al
- Camellia hirsuta Hakoda et Ninh
- Camellia hoabinhensis Ninh et al
- Camellia hulungensis Rosmann et Ninh
- Camellia impressinervis Chang
- Camellia inusitata Orel et al..
- Camellia kirinoi Ninh
- Camellia limonia C.F.Liang et S.L.Mo
- Camellia luongii Ninh et Le
- Camellia luteocerata Orel
- Camellia luteopallida Dung et al.
- Camellia megasepala Chang et Ninh
- Camellia murauchii Ninh et Hakoda
- Camellia ninhii Luong et Le
- Camelia nitidissima Chi
- Camellia ngheanensis Dai et al.
- Camellia oconoriana Orel et al.
- Camellia petelotii (Merr.) Sealy
- Camellia phanii Hakoda et Ninh
- Camellia pleurocarpa (Gangep.) Sealy
- Camellia puhoatensis Dai et al.
- Camellia pukhangensis Dai, et Huong
- Camellia pumatensis Dai et al..
- Camellia quephongensis Ninh et Hakoda
- Camellia rosmannii Ninh
- Camellia tamdaoensis Hakoda et Ninh
- Camellia thanxaensa Hakoda et Kirino
- Camellia thuongiana Luong et al
- Camellia tienii Ninh
- Camellia tonkinensis (Pitard) Cohen-Stuart
- Camellia tuyenquangensis Luong, Le & Ninh
- Camellia velutina Pham V.T et al.
- Camellia vidalii Rosmann
- Camellia vuquangensis Luong et al.
- Camellia sp1 (tên dự định C. Bella)
- Camellia sp2 (Đèo Bụt cuối dãy núi Tam Đảo)
- Camellia sp2
Phần lớn các loài trà vàng có khu phân bố hẹp. Đó là một kiểu thảm thực vật hay là một sườn núi hay thậm chí chỉ tập trung quanh một khe núi có suối nhỏ. Điều kiến sinh thái của các loài trà vàng khá khắt khe như nhiệt độ, ánh sáng, độ ẩm, lượng mưa, độ chiếu sáng, độ cao hay thổ nhưỡng.
2. Phân bố của các loài trà vàng hoang dại ở các tỉnh
Tỉnh | Số loài | Tỉnh | Loài |
1. Yên Bái | 01 | 9. Hà Tây | 01 |
2. Tuyên Quang | 02 | 10. Hòa Bình | 02 |
3. Bắc Cạn | 01 | 11. Ninh Bình | 02 |
4. Thái Nguyên | 06 | 12. Thanh Hóa | 01 |
5. Lạng Sơn | 05 | 13.Nghệ An | 03 |
6. Vĩnh Phúc | 05 | 14. Đồng Nai | 02 |
7. Bắc Giang | 01 | 15. Lâm Đồng | 03 |
8. Quảng Ninh | 03 | 16. Phú Thọ | 01 |
Qua bảng trên chúng ta nhận thấy tỉnh Thài Nguyên có số lượng trà hoa vàng hoang daị nhất. Các loài trà hoa vàng phần lớn tập trung ở sườn núi Đông Bắc dãy núi Tam Đảo.
3. Các loài trà vàng hoang dại gặp ở Thái Nguyên

1.Camellia hakodae Ninh – (Trà vàng Hakoda-Ninh)

2. Camellia hirsuta Ninh et Hakoda – (Trà vàng lông cứng)

3. Camellia phanii Hakoda et Ninh – (Trà vàng phan)



4. Camellia thanxaensa Hakoda et Kirino (Trà vàng Thần Xa)
4. Giá trị kinh tế của trà vàng
Các loài trà vàng không những có vai trò quan trọng tham gia vào cấu trúc các hệ thực vật, nhất là rừng nhiệt đới vùng núi mà còn có ý nghĩa kinh tế.
4.1 Làm cảnh
Có rất nhiều loài trà được con người thuần dưỡng từ lâu, chúng có nhiều màu sắc khác nhau như trắng, hồng, đỏ; nhưng cho đến nay, có thể khẳng định trên thế giới và ngay cả ở Việt Nam cũng chưa có nhiều người biết đến các loài trà có hoa màu vàng được gọi chung dưới cái tên là trà vàng.
Sau khi loài trà vàng đầu tiên được tìm thấy trong rừng của Trung Quốc, nhiều nhà lai tạo giống Trung Quốc và sau đó là Mỹ, Nhật nghĩ ngay đến việc lai tạo giữa trà màu vàng với trà có các màu sắc khác như trắng, hồng đỏ để tạo ra những loài trà lai có màu sắc khác nhau. Tính đến nay các chuyên gia lai tạo Nhật Bản, Trung Quốc đã tạo ra 23 loài trà lai có hoa màu vàng mức độ khác nhau khi lai tạo trà mi Nhật Bản với trà vàng của Trung Quốc hay trà vàng của Việt Nam.
4.2. Dược liệu
Có thể tóm tắt 4 tác dụng của các loài trà vàng
- Trong lá, hoa trà vàng có nhiều nguyên tố Vi lượng như Fe, Mn, Se, Zn; nhiều loại Acid amin và các hợp chất có tác dụng chống oxy hóa cao nên rất có lợi cho sức khỏe con người. Hiện nay các loại sản phẩm từ lá, hoa tươi; lá, hoa sấy thăng hoa. Các loại sản phẩmdùng như chè xanh hay chè khô. Trong lá trà vàng không có cafein nên không làm mất ngủ mà lại làm giấc ngủ sâu hơn.
- Một số hợp chât trong trà vàng có tác dụng giúp điều hòa một số chức năng như huyết áp; mỡ máu, tiểu đường..
- Các loài trà vàng có nhiều saponin. Các saponin có trong trà vàng là chất nhũ hóa và tạo bọt có thể sử dụng trong mỹ phẩm, chất tẫy rửa làm đẹp: kem trắng da, son, kem dưỡng môi, kem chống thâm quầng mắt.
- Tác dụng của trà vàng không thể không nhắc đến là khả năng hạn chế, ngăn ngừa hình thành u bướu. Lá của loài Kim hoa trà có khả năng hạn chế sự phát triển ung thư biểu mô gan. Dịch chiết n- butanol của lá Kim hoa trà sự phát triển dòng ung thư gan HepG2. Dịch chiết từ hoa loài Kim hoa trà có tác duntg ức chế sự phát triển dòng tế bào ung thư vẩy thực quản Eca 109. Các loài trà vàng có khả năng tiêu diệt tế bào ung thư vú MDA-MB-231..
5. Bảo tồn và phát triển bền vững loài trà vàng Hakođa-Ninh
Việt Nam là nước có nhiều loài trà vàng nhất. Việt Nam có điều kiện tư nhiên thuận lợi nên các loài trà vàng phân bố từ Bắc vào Nam nhưng phần lớn tập trung ở các tỉnh miền núi phía Bắc. Đa số các loài trà vàng là các loài cây ưa bóng, ẩm và nhiệt độ dao động từ 20 đến 30 nên chúng ta thường gặp các loài trà vàng các vùng ven suối trong các kiểu rừng thường xanh có độ cao từ 200 m đến 700 m. Cho đến hiện nay đã có 51 loài trà vàng ghi nhận có ở Việt Nam. Đó là nguồn gen quý hiếm của Việt Nam cần được bảo tồn. Sự phân bố của các loài trà vàng của Việt Nam lại trải dài từ Bắc đến Nam, Phân bố lại rãi rác ở nhiều nơi và có địa hình khá đa dạng nên công tác bảo tồn có những khó khăn nhất định. Như mọi người đã biết có hai hình thức bảo tồn: Bảo tồn nguyên vị và bảo tồn chuyển vị. Bảo tồn nguyên vị là hình thức bảo tồn có hiệu quả nhất vì mỗi cá thể trong quần thể tiếp tục thích nghi trong điều kiện chúng có được trong quá trình tiến hóa tự nhiên. Quan điểm của chúng tôi bảo tồn phải đi đôi với phát triển. Thấy được giá trị kinh tế của các loài cây đang bảo tồn thì người dân mới tham gia tích cực vào công tác bảo tồn. Từ các loài được bảo tồn người dân mới nhân rộng, phát triển từ diện tích nhỏ vài trăm mét vuông đến vài ha. Với suy nghĩ như vậy tôi mạnh dạn đề nghi địa phương chúng ta nên bảo tồn và phát triển bền vững loài trà vàng Hakođa-Ninh
5.1 Phát hiện loài trà vàng hakoda-Ninh – Loài trà vàng đẹp nhất VN
Năm 1999 khoa Sinh học chúng tôi tổ chức chuyến đi trở về nơi sơ tán trong thời gian Mỹ ném bom xuống miền Bắc Việt Nam. Đó là xã Ký Phú Huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên giáp VQG Tam Đảo phía Đông Bắc. Sau một ngày về thăm nơi mà cách đấy hơn 30 năm về trước thầy trò chúng tôi được người dân địa phương cho chúng tôi tá túc và học hành trong suốt 2 năm trời. Chúng tôi đã nghỉ đã qua đêm ở hồ Núi Cốc. Sáng hôm sau chúng tôi có chuyến đi quanh hồ bằng tàu du lịch. Mấy năm trước đây có một bạn đồng nghiệp báo cho tôi biết khu rừng thuộc xã Mỹ Yên huyện Đại Từ có một loài trà hoa vàng. Tôi nghĩ đây là dịp may mà tôi có thể tiếp cận với loài này. Tôi xin phép không đi thăm hồ mà tôi đã nhờ cháu gái lễ tân tìm giúp một người hành nghề xe ôm. Mười phút sau người xe ôm dân địa phương tên là Thủy chở tôi vào xã Mỹ Yên. Quãng đường từ hồ Núi Cốc đến xã Mỹ Yên khoảng 30 km. Tôi đến nhà ông Chủ tịch xã và đề đạt nguyện vọng. Ông giới thiệu tôi đến gặp anh Sơn người trong xã đang làm kiểm lâm trông coi khu rừng gần xã. Sau hơn 3 tiếng cuốc bộ thì chúng tôi đến khu rừng có loài trà tôi cần tìm. Hơn 2 tiếng tìm kiếm chúng tôi phát hiện được nhiều cây trà nghi là trà vàng vì mùa nay chưa có hoa mà chỉ dựa vào một số đặc điểm hình thái mà thôi. Chuyến đi chưa thu được kết quả mong muốn nhưng coi như đã xác định được một địa điểm có trà vàng rồi. Lòng say mê với các loài trà vàng của tôi đã truyền sang anh Thủy người lái xe ôm bán chuyên. Mấy tháng sau anh gọi điện cho tôi và anh báo đã tìm thấy một khu rừng khác ngay gần hồ Núi Cốc cũng có nhiều cây trà đã đưa tôi đến một loài trà vàng mà tôi sẽ đề cập ở đoạn đoạn sau. Tháng 12 năm 2000 tôi lại đi xe khách lên Thái Nguyên và anh đưa tôi vào Mỹ Yên. Chúng tôi lại đến địa điểm cũ và trước mắt tôi một quang cảnh quá tuyệt vời những bông hoa trà vàng với màu sắc theo cảm nhận của tôi loài này có hoa to nhất và màu vàng đậm nhất. Tháng 1 năm 2002 trên cơ sở những nghiên về trà vàng Việt Nam của các đồng nghiệp và bản thân, tôi mạnh dạn tổ chức hội thảo trà hoa vàng Việt Nam lần thứ nhất. Tôi đã liên hệ với anh Sơn thuộc trạm kiểm lâm xã Yên Mỹ sang dự hội thảo và mang mấy cành trà hoa vàng có nhiều nụ và hoa. Trong thời gian hội thảo không ngờ hoa của loài này đã thu hút sự chú ý đặc biệt của các đại biểu quốc tế. Các đại biểu phát biểu từ trước tới nay chưa bao giờ nhìn thấy một loài trà vàng nào có kích thước hoa lớn như vậy (trên 10 cm) và màu hoa vàng đậm thế này. Các bạn Nhật Bản coi như đây là vàng của Việt Nam. Nhiều đại biểu tôi đó là loài gì? Tôi trả lời tôi chưa đặt tên khoa học cho loài mới này. Các đại biểu quốc tế mong muốn tôi đặt tên cho loài này. Nhiều lý do khác nhau mà tôi chưa công bố tên loài mới này. Một trong nhiều lý do là tôi muốn thu được quả của loài này. Tôi muốn loài này phải công bố trên tạp chí trong nước, phải có bản vẽ đẹp. Sau khi dự hội thảo trà hoa vàng Việt Nam lần thứ nhất (2002) bà họa sĩ Kakuta và ông Kirino thành viên hội trà Nhật Bản cùng GS Hakoda nhiều lần đến Việt Nam và cùng chúng tôi nghiên cứu loài trà vàng này. Năm 2006 những bức vẽ màu của bà Kakuta về một số loài trà vàng Việt Nam hoàn thành. Ông Kirino cũng hoàn thành các bản vẽ chi tiết một số loài trà vàng Việt Nam. Năm 2007 trên cơ sở những hình vẽ và bản vẽ màu của loài trà vàng quý hiếm này lấy tên GS Hakoda người đã nhiều lần sang Việt Nam sát cánh cùng tôi trong sự nghiệp nghiên cứu trà vàng Việt Nam làm tên loài trà vàng và từ đó tên khoa học của loài này là Camellia hakodae Ninh và tên Việt Nam là Trà vàng Hakoda-Ninh. Trong tất cả cá loài trà vàng Việt Nam thì loài này được nhiều nhà nghiên cứu trà quan tâm nhất. Sau khi đã quan sát nghiên cứu về định loại, về phân bố cũng như các đặc điểm sinh thái chúng tôi cũng muốn đi sâu tìm hiểu giá trị kinh tế của nó. Tôi đã có dịp sang tham quan nhiều cơ sở sản xuất các sản phẩm dược liệu từ loài Kim hoa trà (Camellia nitidissima Chi). Loài này ở Việt Nam trước đấy có nhưng hiện nay cực hiếm hay đã bị tuyệt diệt mà hơn 10 năm nay chúng tôi chưa gặp được trong tự nhiên. Mấy năm gần đây nhiều người trồng trà vàng đã mua loài này từ Trung Quốc và trồng trong các vườn trà ở Tam Đảo hay Ba Chẻ.
5.2 Bảng mô tả loài trà vàng Hakođa –Ninh
Cây gỗ nhỏ, cao 3-4 m. Cành non màu nâu nhạt, nhẵn. Lá có cuống dài 8-15 mm, nhẵn, phiến lá hình bầu dục, bầu dục rộng hoặc thuôn, dài 23.5-29 cm, rộng 9-11.5 cm, xanh đậm và láng ở mặt trên, xanh sáng ở mặt dưới với nhiều điểm tuyến màu nâu, cả hai mặt đều không lông, lá dạng da, dày, gốc lá hình nêm hoặc tròn, chóp lá có mũi nhọn. mép lá có răng cưa nhỏ cách đều nhau, hệ gân lõm ở mặt trên và nổi rõ ở mặt dưới, gân bên 12-16 cặp. Hoa màu vàng tươi, mọc ở đầu cành hoặc nách lá, đường kính khi nở khoảng 6-8 cm; cuống hoa dài 1-1,2 cm mang 5-6 lá bắc hình móng hoặc hình vẩy, cao 1-4 mm, rộng 2-7 mm, mép và mặt trong lá bắc có lông; lá đài 5, hình vẩy đến gần tròn, cao 4-6 mm, rộng 7-12 mm, mép và mặt trong có lông; tràng hoa gồm 16-17 cánh, gần tròn đến bầu dục, dài 2-5,3 cm, rộng 2,3-3,5 cm, có lông ở mặt trong và thưa dần ở các cánh bên trong; bộ nhị nhiều, cao 4-4,5 cm, các chỉ nhị vòng ngoài, dính nhau 1,4 – 2,1 cm, chỉ nhị bên trong rời, có lông; bộ nhụy gồm 4 hoặc 5 lá noãn hợp thành bầu trên, 4-5 ô, không lông, vòi nhụy 4 hoặc 5, rời, dài 3,2-3,5 cm, không lông. Quả gần dạng cầu, đường kính 5-6 cm, cao 4-4,5 cm, 3-4 hạt trong mỗi ô, vỏ quả dày 4,5-6,5 mm. Hạt dài 2,2 cm, có lông.
Thời gian ra hoa: Đầu mùa đông tới đầu xuân.
Sinh thái: Mọc trong thung lũng của rừng thường xanh ở độ cao 400-500 m.
Phân bố: Loài mới chỉ tìm thấy ở VQG Tam Đảo.. Đây là loài đặc hữu của Việt Nam.
Đây là loài trà vàng đẹp nhất có kích thước hoa lớn nhất tìm thấy ở nước ta. Số lượng hoa trên mỗi cành nhiều. Đó là nguồn gen quý hiếm. Trong mấy năm vừa qua nhiều thương lái Trung Quốc thu gom cây đưa về trồng nhiều vùng ở Quảng Tây Trung Quốc.
Hiện nay loài này được nhiều người trồng trà vàng ưa thích và được trồng ở nhiều địa phương từ Bắc vào Nam.



Camellia hakodae Ninh

Camellia hakodae Ninh

Bản vẽ do bà họa sỹ Nhật Bản Yoko Kakuta vẽ và xuất bản năm 2023
5.3. Bảo tồn và phát triển bền vững loài trà vàng Hakođa – Ninh
Có 2 hình thức bảo tồn: Bảo tồn nguyên vị và bảo tồn chuyển vị. Đối với loài trà vàng Hakoda Ninh hình thức bảo tồn chuyển vị là hiệu quả nhất. Qua nhiều năm có tham gia công tác bảo tồn chúng tôi thiết nghĩ những loài có giá trị kinh tế nên dùng phương pháp chuyển vị và trực tiếp do Công ty hay cá nhân đảm nhận. Nhìn thấy giá trị kinh tế và có lợi cho cộng đồng hay cá nhân thì người dân chung tay góp sức bảo tồn.
5.3.1 Những lý do cần bảo tồn loài trà vàng Hakoda – Ninh
– Đây là loài bản địa của Thái Nguyên.
– Hiện nay các cá thể hoang dại rất hiếm trong rừng tự nhiên.
-Nhu cầu cung câp cây giống ngày càng tăng.
– Loài này đã được nhiều viện nghiên cứu rất chi tiết và phát hiện nhiều hợp chất trong lá và hoa. Viện Hoa thuộc Viện Hàn Lâm KHVN đã phát hiện ra hai loại hợp chất mới cho khoa học.
– Nhiều loại sản phẩm từ loài này phục vụ cho sức khỏe can người đã được bán trên thị trường.
– Loài đã được trồng bảo tồn ở nhiều nơi trong tỉnh (Đại Từ, Định Hóa, Đồng Hỷ, Võ Nhai).
Sau nhiều năm quan sát và nghiên cứu, chúng tôi xin phép đưa ra mấy suy nghĩ sau:
- Loài trà vàng Hakođa – Ninh là loài đặc hữu của Việt Nam.
- Loài đang được nhân dân trồng và phát triển tốt ở nhiều vùng của tỉnh.
- Nên xây dựng vườn bảo tồn để cung cấp cây giống.
- Quan tâm đến công tác liên kết các vùng trồng trà vàng.
- Các sản phẩm của trà vàng Hakođa – Ninh cần được sử dụng trong các bài thuốc đông y.
- Phòng bệnh hơn chữa bệnh nên vận động bà con trồng trong vườn gia đình; mỗi nhà trồng 5 đến-10 cây để sử dụng làm đồ uống hàng ngày.

PGS Trần Ninh nhà khoa học công bố 25 loài trà hoa vàng Việt Nam; bà Võ Hòa Bình, giám đốc Trung tâm nghiên cứu Tiềm năng của con người, chụp ảnh lưu niệm cùng Nhà khoa học của Nhà nông Phạm Thị Lý tại Khu bảo tồn Nam dược Nhất Dương Sinh.
Tác giả : PGS Tiến sĩ Trần Ninh
Bài tham luận tại Hội thảo khoa học: Đổi mới sáng tạo trong bảo tồn và phát triển tài nguyên dược liệu, bắt đầu từ cây trà hoa vàng bản địa Thái Nguyên