1. Tiềm năng phát triển các loại cây thuốc ở Võ Nhai
Võ Nhai là huyện miền núi cao duy nhất của tỉnh Thái Nguyên, có hệ sinh thái rừng đa dạng và khí hậu, thổ nhưỡng thuận lợi cho nhiều loài cây dược liệu quý. Theo các đánh giá, huyện sở hữu tiềm năng rất lớn về cây thuốc:
Các cây thuốc bản địa: Xã Cúc Đường (giáp Khu bảo tồn Thần Sa – Phượng Hoàng) đã thống kê được 234 loài cây thuốc thuộc 82 họ thực vật, trong đó có 11 loài nằm trong diện nguy cấp cần được bảo vệ. Toàn Khu bảo tồn Thần Sa – Phượng Hoàng thậm chí có tới 608 loài thực vật được sử dụng làm thuốc. Nhiều loài dược liệu đặc hữu, giá trị (ví dụ như Trà hoa vàng Camellia spp., Khôi nhung Ardisia silvestris, Ba kích Morinda officinalis, Bảy lá một hoa Paris polyphylla, Sâm 1 lá, bổ béo đen, Củ bình vôi, Tắc kè đá, râu hùm..)
Các loài cây thuốc du nhập phù hợp với khí hậu địa phương: Quế (Cinnamomum – vừa cho sản phẩm làm thuốc, vừa là gia vị), sâm Bố Chính (Abelmoschus sagittifolius). Ngoài ra, khí hậu trung du miền núi của Võ Nhai cũng thuận lợi cho các cây thuốc ưa mát từng trồng ở nơi khác: ví dụ Giảo cổ lam (Gynostemma pentaphyllum), Đương quy (Angelica sinensis), Sa nhân tím (Amomum longiligulare),v.v. đã được trồng thử nghiệm ở các tỉnh vùng cao lân cận và có thể mở rộng về Võ Nhai.

2. Các cây dược liệu đang được trồng và khai thác ở Võ Nhai
Đến nay toàn huyện đã hình thành khoảng 400 ha diện tích trồng cây dược liệu các loại. Các loại dược liệu chủ yếu đã được người dân đưa vào trồng gồm: Đinh lăng (Polyscias fruticosa), Hà thủ ô đỏ (Fallopia multiflora), Cát sâm, Cà gai leo (Solanum procumbens), Ba kích (Morinda officinalis)… Ngoài ra còn trồng rải rác dưới tán rừng các loài như Trà hoa vàng (Camellia spp.), Nghệ (Curcuma longa), Khôi nhung (Ardisia silvestris), Xạ đen (Ehretia aspeulla), Dành dành (Gardenia jasminoides), Bán chi liên (Scutellaria barbata), v.v. Các xã phía Bắc huyện – nơi có nhiều đất rừng – hiện tập trung nhiều vùng trồng dược liệu nhất, tiêu biểu như: Nghinh Tường, Sảng Mộc, Phú Thượng, Cúc Đường, La Hiên, Tràng Xá… Nhiều diện tích rừng của huyện đã được tận dụng trồng dược liệu dưới tán như vậy (Ba kích, Khôi nhung, Trà hoa vàng, Hà thủ ô, Cát sâm…). Các loại đất trồng chủ yếu bao gồm:
Trên đất nông nghiệp: Trồng xen canh hoặc chuyển đổi sang trồng dược liệu. Một số cây ngắn ngày như dong riềng đỏ (Canna edulis) được trồng trên đất ruộng cao thiếu nước ở xóm Làng Phật, xã Phú Thượng (cho thu nhập 2 vụ/năm, mỗi sào ~10 triệu đồng – cao gấp 2–3 lần trồng lúa, ngô). Ngoài ra, các hộ dân còn trồng thêm Bán chi liên, Tía tô (Perilla frutescens), Dành dành… trên đất cằn, giúp tận dụng đất và nâng cao thu nhập.
Trên nương rẫy hoặc vườn nhà: Một số cây dược liệu dài ngày được trồng gồm Đinh lăng, Xạ đen, Kim ngân, Khúc khắc… với quy mô nhỏ lẻ, chủ yếu cung cấp cho các Hội Đông y và cơ sở thuốc nam trong vùng.
Trên đất đồi: Những năm gần đây Quế được đưa vào trồng tập trung ở các xã phía Bắc Võ Nhai, vừa phủ xanh đất rừng vừa tạo nguồn dược liệu vỏ quế.
3. Các mô hình tổ chức sản xuất, kinh doanh thảo dược tại Võ Nhai
Có ít nhất 6 tổ chức kinh tế, gồm 4 HTX và 2 doanh nghiệp tại địa phương đang hoạt động trong lĩnh vực phát triển dược liệu, trong đó có 3 tổ chức trồng trọt và 3 tổ chức sản xuất, chế biến và dịch vụ (Bảng 1).
Bảng 1: tóm tắt một số mô hình dược liệu tiêu biểu ở Võ Nhai
TT | Mô hình / Đơn vị | Loại hình | Hoạt động chính | Quy mô và kết quả chính |
1 | HTX Thịnh Vượng (Nghinh Tường) | Hợp tác xã nông nghiệp | Trồng dược liệu dưới tán rừng (ba kích, Trà hoa vàng, hà thủ ô, cát sâm…), kết hợp chăn nuôi (đà điểu, gà đồi). | ~9 ha dược liệu dưới tán rừng; thu hoạch 8 tấn ba kích/0,5 ha/4 năm, lãi ~1,5 tỷ. Tạo việc làm cho 30+ lao động (5 triệu đ/tháng) |
2 | HTX Dược liệu La Hiên (La Hiên) | Hợp tác xã sản xuất | Thu mua và chế biến sâu dược liệu (trà thảo dược đóng gói, cao đặc). | Sản xuất 3 dòng sản phẩm (trà Khúng khéng, trà Khang Can, cao Ích mẫu); tiêu thụ 900 sản phẩm/tháng. Chế biến ~1 tấn nguyên liệu/tháng; giá trị sản phẩm cao gấp 10–15 lần bán thô |
3 | HTX Dược liệu Sảng Mộc (Sảng Mộc) | Hợp tác xã nông nghiệp | Trồng cây khôi nhung dưới tán rừng (bảo tồn loài thuốc quý, chữa đau dạ dày). | Trồng 8.000 cây trên ~2 ha rừng; sau 1 năm dự kiến thu 2 tấn lá khô/năm, giá trị ~400 triệu đồng, lợi nhuận ~300 triệu/ha. |
4 | HTX Dược liệu Cúc Đường (Cúc Đường) | Hợp tác xã nông nghiệp | Trồng tập trung các cây dược liệu bản địa (đinh lăng, giảo cổ lam, dây thìa canh…). | 4 ha vùng trồng dược liệu tập trung (2019). Cung cấp nguyên liệu cho cơ sở đông dược trong tỉnh; đóng vai trò mô hình thí điểm tại xã vùng cao. |
5 | Công ty Dược thảo Hòa Bình (Đình Cả) | Doanh nghiệp sản xuất | Sản xuất trà Giảo cổ lam (chè dây) – chế biến từ dược liệu trồng tại địa phương. | Sản phẩm trà Giảo cổ lam đóng gói thương hiệu Hòa Bình đã bán trên thị trường. Doanh nghiệp liên kết thu mua giảo cổ lam từ người dân để chế biến, đảm bảo đầu ra ổn định. |
6 | Công ty Cây thuốc & Vị thuốc (La Hiên) | Doanh nghiệp dịch vụ | Nghiên cứu, sưu tầm và nhân giống cây thuốc quý; sản xuất thuốc đông y gia truyền, tư vấn sử dụng thuốc. | Đã thu thập nhiều cây thuốc nguy cấp (sâm Bố Chính, cát sâm, sâm cau, bồ hòn…); xây dựng vườn ươm giống dược liệu. Cung cấp cây giống cho nông dân và dự án trồng rừng thuốc; phát triển sản phẩm thuốc nam từ nguồn dược liệu địa phương. |
7 | Khu bảo tồn Nam dược Nhất Dương Sinh | Liên hiệp HTX Nông nghiệp Hữu cơ và Dược liệu Việt Nam | Nghiên cứu, Trồng và bảo tồn dược liệu đặc hữu; Sản xuất thực phẩm bổ dưỡng và thực phẩm chức năng | Đã thu thập nhiều cây thuốc nguy cấp (Nhất Dương Sinh, Nhất Bạch Ngọc, Nhất huyết mộc, Hoàng tinh hoa trắng, trà hoa vàng, trà hoa đỏ, bạch trà…) trên diện tích 10ha; xây dựng vườn ươm giống dược liệu. Cung cấp cây giống cho nông dân và dự án trồng rừng thuốc; phát triển sản phẩm cao cấp từ nguồn dược liệu địa phương; liên kết sản xuất theo chuỗi gắn với cộng đồng người tiêu dùng |
Đây là tiền đề quan trọng để phát triển cây dược liệu theo hướng hàng hóa quy mô lớn hơn của huyện trong thời gian tới.
Mô hình liên kết doanh nghiệp – nông dân: Công ty CP V-Ginseng (Phú Lương, Thái Nguyên) đã liên kết với hàng chục hộ dân trồng sâm Bố Chính trên 20 ha, hỗ trợ giống, phân bón, kỹ thuật và cam kết thu mua toàn bộ sản phẩm, giúp nông dân thu nhập 10–20 triệu đồng/sào chỉ sau 1 năm.
Mô hình dự án lâm nghiệp kết hợp dược liệu: Từ năm 2012, Ban Quản lý Khu bảo tồn Thần Sa – Phượng Hoàng phối hợp với chính quyền huyện triển khai dự án trồng cây ba kích dưới tán rừng đặc dụng.
Chính quyền địa phương:
UBND huyện Võ Nhai đã xây dựng Đề án phát triển vùng dược liệu tập trung gần 100 ha tại 7 xã trọng điểm, với tổng vốn đầu tư ~7 tỷ đồng (ngân sách tỉnh, huyện hỗ trợ một phần).
Mỗi năm, Phòng Nông nghiệp huyện hỗ trợ các HTX, tổ hợp tác tham gia hội chợ, triển lãm quảng bá sản phẩm nông nghiệp tiêu biểu (trong đó có sản phẩm dược liệu) nhằm xây dựng thương hiệu và kết nối thị trường.
Huyện ban hành các chính sách khuyến khích trong đề án phát triển nông-lâm nghiệp (giai đoạn 2021–2025, định hướng 2030) – xác định dược liệu là một sản phẩm thế mạnh cần ưu tiên và bố trí kinh phí 8 tỷ đồng hỗ trợ phát triển nông nghiệp (trong đó có cây dược liệu).

4. Thành tựu phát triển dược liệu tại Võ Nhai
Đến nay, Võ Nhai đã đạt được một số thành tựu bước đầu trong phát triển cây dược liệu:
Mở rộng diện tích và sản lượng: Diện tích trồng dược liệu tăng nhanh: Từ 60 ha (2019) lên 400 ha giai đoạn 2021–2025. Nhiều vùng trồng mới hình thành ở các xã Cúc Đường, La Hiên, Sảng Mộc…
Hình thành hệ thống các hợp tác xã và doanh nghiệp phát triển dược liệu trong huyện, từ đó hình thành các sản phẩm dược liệu đặc trưng: Trà giảo cổ lam, trà hoa đu đủ, trà Khúng khéng, cao ích mẫu…. Các sản phẩm từ sâm Bố Chính do doanh nghiệp liên kết sản xuất tại huyện Phú Lương đã đạt chứng nhận OCOP 3–4 sao (trà hoa sâm, bột sâm). Đây là cơ sở nền tảng rất quan trọng để tiếp tục phát triển ở giai đoạn tiếp theo.
Tạo việc làm, giảm nghèo: Mô hình HTX Thịnh Vượng mang lại thu nhập ổn định cho hàng chục lao động địa phương. Nhiều hộ dân nghèo tham gia trồng dược liệu dưới tán rừng đã có thu nhập cải thiện.
Nâng cao ý thức bảo tồn tài nguyên: Mô hình Khu bảo tồn Nam dược Nhất Dương Sinh của Liên hiệp HTX Nông nghiệp Hữu cơ và dược liệu Việt Nam đã nghiên cứu, bảo tồn và công bố lưu hành được 4 loài dược liệu quý trong đó có trà hoa vàng trong đó sản phẩm trà hoa vàng Hakodae Orgavina đã được công nhận OCOP 3 sao. Thông qua các mô hình dược liệu dưới tán rừng (Khôi nhung, Ba kích,…), người dân địa phương dần nâng cao ý thức bảo vệ rừng gắn với khai thác dược liệu bền vững.
Hợp tác, thu hút nguồn lực: Bước đầu thu hút sự quan tâm của doanh nghiệp và nhà khoa học vào lĩnh vực dược liệu. Việc các công ty, viện nghiên cứu phối hợp cùng địa phương (qua các hội thảo, dự án thử nghiệm) tạo nên hệ sinh thái hỗ trợ phát triển dược liệu.
5. Tồn tại, khó khăn, hạn chế trong phát triển cây dược liệu ở Võ Nhai
Quy mô sản xuất nhỏ, phân tán: Hiện tại diện tích dược liệu của Võ Nhai còn khá khiêm tốn so với tiềm năng. Chưa hình thành được vùng nguyên liệu tập trung quy mô lớn. Việc manh mún khiến khó áp dụng cơ giới hóa, khó kiểm soát đồng đều chất lượng.
Thiếu vốn và hỗ trợ đầu tư: Chi phí đầu tư ban đầu cho dược liệu (mua giống tốt, cải tạo đất, chờ nhiều năm thu hoạch) tương đối cao và chậm thu hồi vốn, khiến nhiều hộ ngại chuyển đổi.
Thời gian sinh trưởng dài, hiệu quả kinh tế chưa hấp dẫn ngay: Nhiều cây dược liệu là cây lâu năm, phải trồng 3–5 năm mới cho thu hoạch (như Ba kích 4 năm).
Hạn chế về kỹ thuật và giống chất lượng: Kỹ thuật nhân giống, trồng và thu hái nhiều loài thuốc chưa được hướng dẫn bài bản, dẫn đến năng suất thấp, cây sinh trưởng kém. Việc chọn tạo giống dược liệu tốt (nhiều hoạt chất, phù hợp địa phương) cũng chưa được triển khai, chủ yếu người dân tự gieo ươm từ nguồn giống nguyên thủy từ tự nhiên nên chất lượng không đồng đều. Một số bệnh hại trên cây thuốc (nấm, sâu đục rễ…) bắt đầu xuất hiện nhưng dịch vụ bảo vệ thực vật chuyên cho dược liệu chưa sẵn có, gây khó khăn cho người trồng.
Thiếu cơ sở chế biến sâu, giá trị gia tăng thấp: Nhìn chung năng lực chế biến dược liệu ở Võ Nhai còn hạn chế. Phần lớn nông dân vẫn bán thô hoặc sơ chế đơn giản (phơi, thái lát) nên giá trị sản phẩm thấp. Theo ước tính, bán dược liệu thô chỉ thu được 1 phần rất nhỏ giá trị, trong khi nếu chế biến thành trà, cao, tinh dầu có thể tăng giá trị gấp 10–15 lần. Tuy đã một số ít cơ sở, năng lực chế biến vẫn chưa đáp ứng hết sản lượng, đặc biệt thiếu công nghệ cao (chiết xuất hoạt chất, sản xuất thuốc đạt chuẩn).
Thị trường tiêu thụ và cạnh tranh: Phần lớn sản phẩm dược liệu thô của Việt Nam (trong đó có Thái Nguyên) vẫn phụ thuộc thị trường Trung Quốc qua đường tiểu ngạch, giá bấp bênh. Cạnh tranh trên thị trường dược liệu ngày càng cao: Yên Bái, Sơn La trồng hàng ngàn hecta Quế, Sa nhân; Quảng Ninh phát triển trà Hoa vàng, Ba kích,… Xây dựng thương hiệu dược liệu Võ Nhai mới ở giai đoạn sơ khai, sản phẩm chưa có chứng nhận chất lượng cao nên khó cạnh tranh ở phân khúc cao cấp.
Hạn chế về chính sách và pháp lý: Khung pháp lý về phát triển dược liệu dưới tán rừng trước đây còn nhiều vướng mắc. Luật Lâm nghiệp 2017 không cho phép trồng cây dược liệu mục đích thương mại trong rừng đặc dụng, và chưa có cơ chế cho thuê môi trường rừng để doanh nghiệp đầu tư trồng dược liệu quý. Tuy Nhà nước đang dần tháo gỡ (Luật Đất đai 2024 sửa đổi đã bổ sung điều khoản cho phép nuôi trồng dược liệu trong rừng đặc dụng, phòng hộ, sản xuất và thuê môi trường rừng cho mục đích này), nhưng ở thời điểm hiện tại, môi trường pháp lý chưa thực sự tạo cú hích mạnh cho phát triển dược liệu.
Nguy cơ mất cân bằng sinh thái: Nếu phong trào trồng dược liệu phát triển “nóng” cũng có thể phát sinh mặt trái: độc canh cây thuốc trên diện rộng dễ dẫn đến sâu bệnh, xói mòn đất; lạm dụng phân thuốc hóa học có thể ảnh hưởng đến chất lượng dược liệu và môi trường. Bài học từ một số nơi (trồng Sâm Bố Chính, Sa nhân ồ ạt rồi dư thừa) cũng đặt ra cảnh báo cho Võ Nhai trong việc điều tiết cung cầu và tránh chạy theo phong trào.
Tóm lại, phát triển cây dược liệu ở Võ Nhai còn đối mặt với những trở ngại cả bên trong lẫn bên ngoài. Để khắc phục, huyện cần những giải pháp đồng bộ về vốn, kỹ thuật, thị trường và chính sách, nhằm biến tiềm năng sẵn có thành lợi thế cạnh tranh thực sự.
6. Định hướng và giải pháp phát triển dược liệu giai đoạn 2025–2035
Trong giai đoạn 2025–2035 huyện nên triển khai một chiến lược phát triển dược liệu toàn diện và bền vững. Những giải pháp trọng tâm, mang tính định hướng cho 10 năm tới bao gồm:
1) Quy hoạch vùng trồng dược liệu trọng điểm: Ưu tiên các xã miền núi phía Bắc giàu tài nguyên rừng (như Sảng Mộc, Thượng Nung, Phú Thượng, Tràng Xá,…) để hình thành vùng chuyên canh dược liệu dưới tán rừng kết hợp; nghiên cứu chuyển đổi sử dụng đất từ trồng một số cây nông nghiệp sang cây dược liệu.
2) Lựa chọn và phát triển các loài dược liệu mũi nhọn: Dựa trên nhu cầu thị trường và thế mạnh sinh thái, xác định một số loài dược liệu chủ lực của để tập trung phát triển. Có thể chia nhóm: i) Nhóm dược liệu rừng (Ba kích, Sa nhân, Trà hoa vàng, Lan một lá, Khôi nhung, Hà thủ ô, Sâm cau,…), ii) nhóm dược liệu đồng ruộng (Đinh lăng, Dây thìa canh, Nghệ, Gừng, Cà gai leo, Sâm bố chính,…), iii) Nhóm cây lâu năm giá trị cao (Quế). Chú trọng bảo tồn và nhân giống các cây thuốc. Cần xây dựng vườn ươm dược liệu giống chuẩn cung cấp cây con chất lượng cho nông dân, giảm tình trạng giống trôi nổi kém chất lượng.
Để phát triển Trà hoa vàng ở huyện Võ Nhai, cần chú ý các điểm sau: i) Rà soát lại các loài trong tự nhiên và đang được trồng trong huyện (các loài (tên khoa học), các giống, nguồn gốc diện tích, hiện trạng trồng, mô hình trồng, dự báo sản lượng (hoa, lá), các kinh nghiệm sử dụng, các sản phẩm đã phát triển, vấn đề tồn tại) từ đó đúc kết kinh nghiệm, xác định loài cần tập trung phát triển; ii) Nghiên cứu bằng chứng khoa học về giá trị sử dụng của hoa, lá, so sánh với loài đang được phát triển ở địa phương khác (Ba Chẽ, Tam Đảo, Cúc Phương, Quế Phong,…) từ đó khẳng định giá trị sử dụng của loài/giống Trà hoa vàng của huyện; nghiên cứu chọn giống có năng suất và/hoặc hàm lượng hoạt chất cao; iii) Phát triển các mô hình/vùng trồng trọt theo tiêu chuẩn organic, có truy suất nguồn gốc bằng công nghệ mới; iv) Nghiên cứu và phát triển các công nghệ chiết suất, tinh chế hoạt chất từ lá, hoa bằng các công nghệ mới, như chiết xuất có sự hỗ trợ của enzyme, vi sóng, loại tạp chất bằng chất hấp phụ,… để sản xuất tinh chất Trà hoa vàng, chứng minh tác dụng của tinh chất này; iv) Nghiên cứu và phát triển các sản phẩm đa dạng từ hoa và lá Trà hoa vàng, như đồ uống, thực phẩm chức năng, mỹ phẩm, thuốc từ dược liệu, cây cảnh (do nó ra hoa vào dịp Tết); v) xây dựng thương hiệu và xúc tiến thương mại Trà hoa vàng Võ Nhai, trong đó xác định các điểm khác biệt, câu chuyện sản phẩm.
3) Xây dựng hệ sinh thái phát triển dược liệu với các thành phần:
i) Trung tâm (hạt nhân): Doanh nghiệp – HTX dược liệu: Nâng cấp các tổ chức kinh tế đã có như HTX Thịnh Vượng, HTX La Hiên, HTX Sảng Mộc, … thành các “trạm trung chuyển giá trị”: vừa sản xuất, sơ chế, vừa liên kết tiêu thụ. Hỗ trợ các HTX chuẩn hóa theo mô hình HTX kiểu mới (có kế toán, kế hoạch sản xuất, marketing); Nâng cấp, tái cấu trúc các doanh nghiệp và HTX: Đào tạo năng lực quản trị, truy xuất, OCOP, ứng dụng công nghệ 4.0; Đầu tư thiết bị sơ chế, bảo quản, đóng gói nhỏ lẻ.
ii) Vệ tinh sản xuất là các hộ dân – tổ hợp tác – cộng đồng bản địa: Xây dựng các cụm hộ dân liên kết theo nhóm cây (Khôi nhung, Ba kích, Trà hoa vàng,…); Đào tạo người dân về kỹ thuật trồng GACP-WHO, quy trình thu hái – phơi sấy đạt chuẩn, kỹ năng thương lượng và liên kết thị trường.
iii) Kêu gọi sự tham gia của Trường đại học – Viện nghiên cứu, như Trường Đại học Dược Hà Nội (tư vấn công thức, hoạt chất, tiêu chuẩn hóa sản phẩm); Viện Dược liệu – Bộ Y tế (cung cấp giống, thử nghiệm bài thuốc); ĐH Nông Lâm Thái Nguyên (đào tạo cán bộ kỹ thuật địa phương).
iv) Thiết lập “Chương trình hợp tác 3 bên” giữa UBND huyện – Trường/Viện – HTX/Doanh nghiệp.
v) Phát triển doanh nghiệp chế biến & đầu tư: Kêu gọi đầu tư nhà máy chế biến dược liệu cấp huyện (sấy – chiết – đóng gói) bằng cách hỗ trợ nâng cấp các HTX/DN đã có hoặc mời gọi các doanh nghiệp bên ngoài; mời gọi doanh nghiệp đầu tư theo mô hình thuê môi trường rừng để trồng dược liệu (theo Luật Đất đai mới), bao tiêu nguyên liệu từ HTX – hộ dân và góp vốn vào mô hình liên kết (có hỗ trợ từ huyện).
vi) Xây dựng cơ sở dữ liệu – truyền thông – thị trường, như: Xây dựng bản đồ số vùng trồng dược liệu Võ Nhai; Kết nối thương hiệu “Dược liệu Võ Nhai” với các sàn thương mại điện tử (như Postmart, Voso, OCOPmart), kênh du lịch: TripHunter, Klook, Traveloka (tour dược liệu). Xây dựng website chung giới thiệu hệ sinh thái và đối tác liên kết.
Mục tiêu kỳ vọng đến năm 2030 (gợi ý) là: Có 5–7 HTX/Doanh nghiệp được tái cấu trúc, chuyển đổi, nâng cấp thành trung tâm liên kết vùng nguyên liệu; 100% vùng trồng chủ lực có truy xuất nguồn gốc; 1–2 nhà máy chế biến nhỏ được hình thành hoặc liên kết đầu tư; Có ít nhất 3 trường/viện nghiên cứu tham gia vào đào tạo, nghiên cứu phát triển sản phẩm; Doanh thu toàn ngành dược liệu Võ Nhai tăng gấp 5 lần so với 2024; Có ít nhất 10 sản phẩm OCOP – dược liệu cấp huyện, 2 sản phẩm đạt 4 sao cấp tỉnh.
4) Hỗ trợ kỹ thuật và ứng dụng khoa học công nghệ: Mở rộng các lớp tập huấn theo hướng “cầm tay chỉ việc” tại các vùng trồng. Xây dựng mô hình mẫu ứng dụng công nghệ cao như hệ thống tưới tiết kiệm và nhà lưới cho vườn ươm cây giống; mô hình trồng dược liệu tiêu chuẩn hữu cơ, GACP-WHO; mô hình sấy, chiết xuất bằng công nghệ hiện đại tại địa phương. Khuyến khích các HTX, hộ dân ứng dụng cơ giới hóa khâu làm đất, phơi sấy để nâng năng suất và chất lượng.
5) Chính sách hỗ trợ vốn và đất đai cho nông dân: Ban hành cơ chế khuyến khích các hộ chuyển đổi từ trồng cây kém hiệu quả sang trồng dược liệu. Có thể áp dụng chính sách hỗ trợ chi phí cây giống, phân bón trong 1–2 năm đầu cho hộ tham gia mô hình (đặc biệt hộ nghèo, cận nghèo). Tạo điều kiện cho nông dân dồn điền đổi thửa, góp đất liên kết thành vùng trồng lớn, khắc phục manh mún. Xem xét lồng ghép hỗ trợ từ Chương trình Mục tiêu Quốc gia (Giảm nghèo bền vững, Xây dựng nông thôn mới) cho dự án trồng dược liệu tại các xã khó khăn. Cải thiện tiếp cận tín dụng: Phối hợp ngân hàng triển khai gói vay ưu đãi cho trồng cây dược liệu (giống mô hình vay trồng rừng sản xuất), giúp nông dân có vốn đầu tư ban đầu.
6) Thu hút doanh nghiệp và phát triển mô hình liên kết: Đề xuất tỉnh ban hành chính sách ưu đãi (thuế, thuê đất, tín dụng) cho doanh nghiệp dược liệu đặt cơ sở sản xuất tại địa phương và phát triển mô hình liên kết chuỗi: Doanh nghiệp cung cấp giống, kỹ thuật – người dân góp đất, công lao động – doanh nghiệp bao tiêu và chế biến sản phẩm. Mô hình này đảm bảo đầu ra ổn định và chia sẻ lợi ích hài hòa.
7) Nâng cấp hoạt động chế biến và đa dạng hóa sản phẩm: Khuyến khích các doanh nghiệp, HTX xây dựng nhà máy chế biến quy mô vừa (sấy khô, tinh chế dược liệu) gắn với vùng nguyên liệu Võ Nhai. Mục tiêu đến 2030, hình thành ít nhất 1 nhà máy chế biến dược liệu cấp huyện, đạt tiêu chuẩn GMP hoặc tương đương, đủ chế biến sâu các sản phẩm như tinh dầu Quế, cao dược liệu, trà thảo dược túi lọc,… Đa dạng hóa sản phẩm: ngoài các dạng trà và cao, cần phát triển các dòng sản phẩm mới từ dược liệu Võ Nhai như thực phẩm chức năng, mỹ phẩm thảo dược, dược liệu chiết xuất. Phối hợp với các nhà khoa học nghiên cứu bài thuốc cổ truyền địa phương, chuẩn hóa quy trình bào chế thành sản phẩm thương mại (ví dụ bài thuốc tắm người Dao từ lá rừng Võ Nhai, cao dược liệu hỗ trợ điều trị bệnh dạ dày từ lá Khôi,…).
(8) Gắn với du lịch: Chọn các xã có điều kiện phát triển du lịch đã phát triển dược liệu để xây dựng các sản phẩm du lịch gắn với các mô hình tổ chức du lịch cộng đồng. Tổ chức các tour du lịch trải nghiệm dược liệu (tham quan rừng thuốc, khu bảo tồn, vườn cây dược liệu, thu hái, chế biến dược liệu, tắm lá thuốc,…) gắn với du lịch sinh thái – văn hóa ở khu vực Thần Sa – Phượng Hoàng, qua đó quảng bá rộng rãi hình ảnh “Võ Nhai – vùng dược liệu” đến du khách. Nghiên cứu xây dựng Trục du lịch văn hóa – thảo dược Thái Nguyên (Chè) – Võ Nhai (dược liệu (Trà hoa vàng), nông sản (Na, Quýt hôi), văn hóa dân tộc (Dao, Tày, Cao lan, San chí), cánh đồng lúa chín) – Bắc Sơn – Lạng Sơn – Hà Nội.
(9) Xây dựng thương hiệu và xúc tiến thương mại: Triển khai mạnh mẽ hoạt động xây dựng thương hiệu cho cây dược liệu Võ Nhai. Trước mắt, lựa chọn 1–2 sản phẩm đặc trưng nhất (ví dụ Trà Giảo cổ lam Võ Nhai, Trà hoa vàng Thượng Nung, Trà hoa vàng Hakodae Orgavina Tràng Xá…) để đăng ký nhãn hiệu tập thể hoặc chỉ dẫn địa lý, tạo dấu ấn trên thị trường. Tham gia chương trình OCOP để nâng hạng sao cho các sản phẩm dược liệu tiềm năng, qua đó được tỉnh hỗ trợ quảng bá. Hàng năm, hỗ trợ các đơn vị mang sản phẩm dược liệu tiêu biểu tham gia hội chợ nông sản, triển lãm chuyên ngành dược trong và ngoài tỉnh. Tận dụng kênh xúc tiến thương mại điện tử: xây dựng website, fanpage giới thiệu dược liệu Võ Nhai.
10) Triển khai các chính sách vĩ mô và lồng ghép chương trình quốc gia: Chương trình phát triển công nghiệp dược và dược liệu trong nước đến 2030 (Quyết định 376/QĐ-TTg năm 2021) cũng có các gói hỗ trợ cho vùng trồng dược liệu tập trung cung ứng cho nhà máy dược.
11) Bảo vệ môi trường và phát triển bền vững: Ban hành quy định và hướng dẫn người dân trồng, thu hái dược liệu bền vững, không dùng hóa chất cấm, không xâm hại đến rừng tự nhiên. Tăng cường giámsát nguồn gốc dược liệu (ưu tiên nguồn trồng, hạn chế khai thác tự nhiên trái phép).
(12) Nâng cao năng lực quản lý và liên kết vùng: Thành lập hoặc giao nhiệm vụ cho một Ban chỉ đạo/ Tổ công tác về phát triển dược liệu cấp huyện để điều phối các hoạt động (quy hoạch, khuyến nông, xúc tiến…). Thiết lập hệ thống thông tin thị trường dược liệu để kịp thời định hướng sản xuất cho nông dân (tránh trồng tự phát dẫn đến dư thừa). Tăng cường liên kết với các huyện khác trong và ngoài tỉnh có cùng định hướng phát triển dược liệu (như Phú Lương, Đại Từ, Định Hóa của Thái Nguyên; Ba Chẽ của Quảng Ninh; các huyện vùng cao Lào Cai, Hà Giang,…).
Tài liệu tham khảo chính:
- Báo Nông nghiệp & Môi trường baothainguyen.vnbaothainguyen.vn.
- Báo Thái Nguyên baothainguyen.vn; daithainguyen.vn.
- BotanyVNbotanyvn.com.
- Cổng TTĐT Thái Nguyên vonhai.thainguyen.gov.vn.
- Nông nghiệp Việt Nam Vietnamagriculture.nongnghiep.vn.
- Tạp chí KHCN ĐH Thái Nguyên jst.tnu.edu.vnjst.tnu.edu.vn;
- Trần Ngọc Hằng, Đinh Thị Phượng (2019), “Nghiên cứu đa dạng cây thuốc ở xã Cúc Đường, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Thái Nguyên.
- VietNamNet vietnamnet.vnvietnamnet.vn.
Tác giả: PGS.TS. Trần Văn Ơn – Trường ĐH Dược Hà Nội